Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2016

Chia sẻ với bạn về 2 phương án cứu Bianfishco

Phương án thứ hai là DATC tư vấn, đưa ra giải pháp để cho doanh nghiệp và các chủ nợ ngồi với nhau. Chúng tôi cũng nghiêng nhiều về phương án thứ hai vì tính khả thi cao hơn. DATC sẽ chỉ tham gia một phần chứ không "bơm” nhiều tiền vào Bianfishco. DATC sẽ cho kiểm toán và đánh giá hết lại tài sản, công nợ và đưa ra phương án xử lý tài sản.
Ông Phạm Thanh Quang, Tổng giám đốc DATC cho biết, công ty này dự kiến đưa ra 2 phương án giúp Bianfishco trở lại hoạt động bình thường. Ông Quang có cuộc trao đổi với báo chí xung quanh vấn đề này.
DATC được thành lập với mục tiêu xử lý các khoản nợ tồn đọng và tài sản không cần dùng, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước. Tại sao lần này DATC lại tham gia "giải cứu" doanh nghiệp tư nhân?
Bianfishco có thể được bơm tiếp 250 tỷ đồng để hoạt động trở lại
- Hiện nay ngành thủy sản nói chung đang gặp khá nhiều khó khăn. Đối với các doanh nghiệp chế biến cá tra, rủi ro rất lớn do đầu tư ban đầu nhiều, lãi suất cao. Bianfishco là một trong những doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực này và việc họ ngập trong nợ nần có tác động rất lớn tới kinh tế - xã hội của địa phương cũng như khu vực.
Vì vậy chúng tôi quyết định tham gia. Tuy nhiên, phải khẳng định việc tham gia của DATC vào Binhanfishco đơn thuần là quan hệ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp.
Vậy phương án DATC dự kiến đưa ra để "giải cứu" Bianfishco như thế nào?
- DATC còn phải đánh giá lại thật kỹ, kiểm toán toàn bộ thì mới đưa ra được phương án. Tuy nhiên hiện nay chúng tôi cũng đã tính đến một số phương án.
Phương án thứ nhất là tìm nhà đầu tư nước ngoài "bán đứt". Thậm chí, nếu nhà đầu tư trong nước có đủ tiềm lực có nhu cầu cũng sẽ bán. DATC sẽ đứng vai trò trung gian để dàn xếp, thậm chí tham gia một phần nhỏ. Theo phương án này, doanh nghiệp có thể trả tiền mua theo lộ trình, nhưng trước hết "bơm" vài trăm tỷ để nhà máy đi vào hoạt động.
Phương án thứ hai là DATC tư vấn, đưa ra giải pháp để cho doanh nghiệp và các chủ nợ ngồi với nhau. Chúng tôi cũng nghiêng nhiều về phương án thứ hai vì tính khả thi cao hơn. DATC sẽ chỉ tham gia một phần chứ không "bơm” nhiều tiền vào Bianfishco. DATC sẽ cho kiểm toán và đánh giá hết lại tài sản, công nợ và đưa ra phương án xử lý tài sản.
Cơ cấu lại tài sản, bán các tài sản không cần thiết như Nhà máy collagen, viện nghiên cứu, vùng nuôi trồng…, chỉ giữ lại tài sản lõi là nhà máy chế biến. Riêng việc cơ cấu lại tài sản có thể thu về hàng trăm tỷ đồng.
Tiếp theo sẽ cơ cấu lại cổ đông. Mời cổ đông chiến lược vào, đồng thời mời các chủ nợ cùng tham gia, đặc biệt là các ngân hàng. Sau khi cơ cấu lại sẽ để các doanh nghiệp có kinh nghiệm trong lĩnh vực thủy sản tham gia điều hành trực tiếp.
Tôi biết hiện cũng có nhóm nhà đầu tư trong nước là các doanh nghiệp thủy sản có tín hiệu muốn thông qua các quỹ đầu tư để tham gia vào Bianfishco, vì đây là nhà máy chế biến thủy sản hiện đại và đã có những đơn hàng đi Mỹ, Nhật và các thị trường khó tính.
Tuy nhiên, cả hai phương án muốn thành công cần phải có cổ đông mới có năng lực thực sự và am hiểu về thủy sản.
* Để lập phương án cơ cấu lại Bianfishco sẽ mất bao lâu?
- Nếu tích cực làm thì trong khoảng một tháng là hoàn thành, nhưng điều này còn phụ thuộc rất nhiều vào các chủ nợ. Các chủ nợ phải có thiện chí thì mới tiến hành nhanh được. Nếu không, việc này có thể kéo dài hàng năm nếu chưa thống nhất được giá trị các khoản nợ đối với các chủ nợ.
Chúng tôi phải cân nhắc kỹ và chỉ bơm tiền vào các tài sản xương sống của doanh nghiệp như nhà máy và cùng lắm là vùng nguyên liệu để nhà máy có thể quay trở lại hoạt động và tạo ra nguồn thu để trả nợ. Chúng tôi cho cần câu chứ không cho con cá. Mức "bơm" tiền tối đa có thể là 250 tỷ đồng.
* Ông đánh giá như thế nào về khả năng giải cứu thành công Bianfishco?
- Khả năng thành công là rất lớn. Hiện nay một số nhà đầu tư đã liên hệ để tham gia. Chúng tôi cũng đang tìm một ngân hàng để tham gia cùng. Theo tính toán của tôi, nếu bơm khoảng 500 tỷ đồng là có thể đưa nhà máy đi vào hoạt động.
Trên thực tế chúng tôi đã xử lý thành công nhiều trường hợp doanh nghiệp rơi vào tình trạng rất xấu. Chẳng hạn như cuối năm 2006 chúng tôi xử lý thành công Sadico. Đầu năm 2007, DATC bơm vào doanh nghiệp này 200 tỷ đồng để thực hiện chuyển đổi thì đến cuối năm 2007, họ đã hoạt động có lãi và chia cổ tức. Trường hợp của Bianfishco phức tạp hơn nhưng tôi tin là không quá 2 năm.

Cùng tìm hiểu về xuất khẩu trái cây: Những trăn trở

Thậm chí với thị trường châu Âu, đôi khi vận chuyển cũng gặp nhiều khó khăn, vì muốn trái cây vẫn giữ nguyên chất lượng, đạt giá trị xuất khẩu cao, phải chuyển hàng bằng máy bay, trong khi đó chi phí vận chuyển lại cao, doanh nghiệp không thu được lợi nhuận, mà vận chuyển bằng đường thủy lại càng không thể, vì khi đến nơi, lô hàng dễ bị hư hao.
Trái cây xuất khẩu của Việt Nam hàng năm đạt doanh thu trên 600 triệu USD. Nhưng công tác bảo quản trái cây xuất khẩu đi nước ngoài vẫn còn là điều trăn trở đối với cả nông dân lẫn doanh nghiệp. Đó là chưa nói đến khâu vận chuyển trong nước, đi đến các vùng sâu, vùng xa, nếu không tốt, không nhanh cũng khó tránh khỏi bị hư hao.
Trái cây xuất khẩu của Việt Nam hàng năm đạt doanh thu trên 600 triệu USD
Khó khăn trong vận chuyển, tiêu thụ
Đặc trưng trái cây Việt Nam thuộc loại nhiệt đới, vì vậy thời gian bảo quản sẽ rất ngắn, nếu không sử dụng chất bảo quản sinh học, hoặc bảo quản bằng những chất mà tiêu chuẩn cho phép, thời gian giữ trái tươi cũng chỉ được từ 4-5 ngày, còn khi sử dụng công nghệ, thời gian tối đa cũng chỉ gần hai tuần.
Đây là một trong những nguyên nhân gây ảnh hưởng tới lượng trái cây xuất khẩu đi nước ngoài cũng như tiêu thụ trong nước.
Theo ông Nguyễn Văn Kỳ, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả, mặt hàng trái cây hiện nay chỉ có thể xuất đi thị trường châu Âu và các nước trong khu vực châu Á.
Thậm chí với thị trường châu Âu, đôi khi vận chuyển cũng gặp nhiều khó khăn, vì muốn trái cây vẫn giữ nguyên chất lượng, đạt giá trị xuất khẩu cao, phải chuyển hàng bằng máy bay, trong khi đó chi phí vận chuyển lại cao, doanh nghiệp không thu được lợi nhuận, mà vận chuyển bằng đường thủy lại càng không thể, vì khi đến nơi, lô hàng dễ bị hư hao.
Nếu trái cây ra thị trường nước ngoài gặp khó khăn về khâu vận chuyển và bảo quản, thì ngay cả thị trường trong nước cũng không ngoại lệ.
Bà Võ Mai, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam chia sẻ, so với nhu cầu xuất khẩu trái cây, nhu cầu tiêu dùng trong nước càng lớn hơn nhiều lần.
Con đường quốc lộ 1A dài hàng ngàn cây số, xe vận chuyển phải đi mất ba ngày hai đêm mới tới nơi, đó là chưa tính đến phải thêm công đoạn vận chuyển đến vùng Tây Bắc, giao thông lại khó khăn hơn, điều đó cũng đồng nghĩa, trái cây không đến được với đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc.
Điều này dẫn đến một nghịch lý của ngành, nơi quá thừa có lúc phải đổ đi, nơi lại quá thiếu so với nhu cầu tối thiểu.
Doanh nghiệp phải nhanh trong chế biến
Ông Huỳnh Quang Đấu, Giám đốc Công ty rau quả thực phẩm An Giang cho biết, đối với doanh nghiệp chế biến trái cây cũng không ngoại lệ khi xuất mặt hàng khóm sang thị trường Mỹ, doanh nghiệp cũng không sử dụng một loại chất bảo quản nào dù là chế biến đóng lon, bởi yêu cầu của thị trường Mỹ khá khắt khe, chỉ một lần hoặc một sản phẩm có dấu hiệu chứa chất bảo quản không cho phép, xem như mọi hợp đồng sau này đều khó thâm nhập, thậm chí có nguy cơ mất luôn thị trường. Do đó, khi thu hoạch nguyên liệu, doanh nghiệp đưa vào chế biến nhanh nhất để có thể đảm bảo an toàn cho sản phẩm.
Ông cũng đưa ý kiến về yêu cầu cấp thiết giải quyết cho sản phẩm trái cây Việt Nam là một loại chế phẩm sinh học an toàn trong việc bảo quản rau quả, kéo dài thời gian giữ tươi trái cây cũng là giữ giá trị trái cây trong thời gian lâu hơn.
Giữ trái cây tươi lâu trong phạm vi an toàn sinh học là yêu cầu cấp thiết hiện nay
Theo bà Nguyễn Thị Hồng Thu, Giám đốc Công ty TNHH Chánh Thu, công ty giữ vững phương châm sản xuất của mình nhằm đảm bảo thị trường tiêu thụ, công ty chỉ xuất các loại trái cây tươi chế biến, trong đó hai loại trái chủ lực là chôm chôm và nhãn.
Để cho ra hai sản phẩm an toàn xuất khẩu sang các nước châu Âu và thị trường Mỹ, công ty đã ba lần đầu tư nâng cấp công nghệ chế biến sau thu hoạch.
Sản phẩm trái cây đóng hộp không sử dụng chất bảo quản, kể cả chất bảo quản sinh học, vì đặc điểm thị trường Mỹ và thị trường châu Âu rất khó tính, nên những loạt sản phẩm đưa sang phải đúng theo tiêu chuẩn của họ.
Chính vì thế, công đoạn thu hoạch, phân loại và chế biến phải được thực hiện trong thời gian nhanh nhất, tránh trái bị đổi màu hoặc xuống màu và hư hao. Trong quá trình vận chuyển, trái cây được bảo quản theo cách thông hơi axit và thông hơi lưu huỳnh.
Để đảm bảo được chất lượng trái, công ty đặt hàng nông dân phải sản xuất theo yêu cầu của công ty. Hơn nữa, do sản xuất theo tiêu chuẩn xuất khẩu nên công ty sẽ thu mua với giá cao hơn so với giá thị trường.
Đây cũng chính là điều khuyến khích nông dân nâng cao ý thức sản xuất hàng chất lượng cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu theo hợp đồng 150 tấn/tháng (sang Mỹ và châu Âu), hoặc 600 tấn/tháng sang thị trường Trung Quốc.
Sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP - hướng đi cần thiết
Ông Trương Quang An, Chủ nhiệm Hợp tác xã thanh long Tầm Vu, ấp Hội Xuân, thị trấn Tầm Vu, huyện Châu Thành, Long An cho biết hợp tác xã có 70 xã viên tham gia sản xuất thanh long xuất khẩu với tổng diện tích khoảng 60ha.
Để đáp ứng yêu cầu của thị trường Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan, hợp tác xã đã sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, và khi hàng xuất đi, tuyệt đối không được sử dụng bất kỳ một loại chất bảo quản trái cây nào, trong đó bao gồm cả chất bảo quản sinh học.
Tuy nhiên, các thị trường này vẫn có thể chấp nhận loại UMIKAI (chế phẩm sinh học được dùng để bảo quản nông sản, an toàn cho sức khỏe con người được sản xuất từ Nhật Bản), và hàng hóa vẫn có thể vào thị trường nước ngoài, bởi trong loại chất này không chứa những thành phần mà thị trường Mỹ và châu Âu ngăn cấm.
Có thể nói, ngoài chất UMIKAI, nhà vườn trồng thanh long Tầm Vu không dám đi ngược với quy trình bảo quản.
Hiện nay, lượng thanh long xuất đi khoảng 200 tấn/tháng và được doanh nghiệp nước ngoài thu mua trực tiếp tại vựa, không phải qua một khâu trung gian nào, đã tạo thuận lợi cho nhà vườn hợp tác xã Tầm Vu.
Chính vì thế, nông dân ở đây cũng học cách làm việc giữ chữ tín với nhau, không tạo ra sản phẩm chứa chất nguy hại, đồng thời chia sẻ tổn thất với doanh nghiệp khi doanh nghiệp thất thoát trong bán hàng.
Với những lô hàng xuất sang nước khác “lỡ” mất độ tươi ngon một chút, thì nông dân cũng sẵn sàng chia sẻ một nửa tổn thất đó, nhưng hầu như là hiếm khi như vậy.
Đây là một thành quả khả quan trong quy trình trồng, bảo quản, chế biến sau thu hoạch thanh long của Hợp tác xã Tầm Vu.
Hợp tác xã Tân Triều, xã Tân Bình, huyện Vĩnh Cửu, Đồng Nai cũng từng bước khẳng định giá trị chất lượng của trái bưởi Việt Nam. Dù công tác bảo quản không khắt khe như trái thanh long, nhưng các công đoạn cũng thực hiện không đơn giản.
Tuy nhiên, tương lai trái bưởi Tân Triều còn rộng mở sang thị trường Trung Quốc, bởi đặc tính tự bảo quản của bưởi lên đến 1 tháng mà không cần một loại thuốc bảo quản nào.
Các xã viên thu hoạch bưởi chỉ cần chọn lựa kĩ càng trái đẹp, ngon rồi rửa qua loại nước đã được kiểm nghiệm thành phần.
Như vậy, đối với trái cây, bảo quản là một khâu khó khăn vô vàn, đặc biệt là loại trái cây nhiệt đới, mà trái bưởi là loại “dễ dãi” mang đến lợi nhuận cho nông dân khi ra thị trường nước ngoài.

Cùng tìm hiểu về thị trường bảo hiểm: Vào nhanh kẻo lỡ!

Trong đó, đa phần chỉ sở hữu một sản phẩm bảo hiểm. Trong khi, ở Philippines hay Hồng Kông, người dân thường mua từ 2 - 4 sản phẩm bảo hiểm. “Chúng ta sẽ thấy tỷ lệ sở hữu bảo hiểm của người dân Việt Nam sẽ tăng lên trong tương lai, ít nhất là 5 - 10 năm nữa. Điều quan trọng là công việc của các đại lý phải giúp khách hàng nhận ra nhu cầu cần được bảo hiểm và chọn giải pháp phù hợp nhu cầu của khách hàng”, ông Robert Cook, Chủ tịch Manulife Financial Asia Limited khu vực châu Á, nhấn mạnh.
Prudential đang bị các đối thủ bám đuổi quyết liệt - Ảnh: Quý Hòa
Liên minh lớn IAG - AAA

Cuối tuần rồi, Công ty Bảo hiểm IAG (Úc) công bố việc mua 30% cổ phần của Công ty bảo hiểm AAA. Thương vụ trị giá 16 triệu USD này là thương vụ mua bán cổ phần trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ đầu tiên và lớn nhất trong ngành từ đầu năm.
Nhận định về cuộc mua bán này, ông Mike Wilkins, Giám đốc Điều hành của IAG, cho biết: “30% cổ phần trong AAA sẽ giúp chúng tôi bước chân vào thị trường bảo hiểm của Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng 25% mỗi năm của ngành bảo hiểm Việt Nam từ năm 2009 đã gây ấn tượng với tôi. Với mức độ sở hữu bảo hiểm của người dân thấp như hiện tại, tôi tin tưởng thị trường sẽ còn tiếp tục đạt mức tăng trưởng cao như vậy trong vòng 3 - 5 năm tới”.

Thông qua thương vụ mua bán 30% cổ phần ban đầu này với AAA, mục tiêu của IAG là nhằm tiến đến việc nắm giữ 49% cổ phần trong AAA. Ông Justin Breheny, CEO IAG khu vực châu Á không giấu tham vọng: “IAG có quyền ưu tiên để gia tăng số lượng cổ phần tại AAA lên 49% theo biên bản thỏa thuận đã ký kết”.
Ngoài ra, IAG sẽ hỗ trợ AAA mở rộng hoạt động và trở thành công ty bảo hiểm mạnh hơn tại thị trường hấp dẫn này. Bà Đỗ Thị Kim Liên, Tổng giám đốc AAA, cho hay, việc IAG tham gia cùng bảo hiểm AAA nằm trong định hướng chiến lược của công ty để đón đầu cơ hội phát triển nhanh và mạnh của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong những năm tới.
Cụ thể, IAG sẽ giúp AAA hoàn thiện ứng dụng sâu công nghệ thông tin trong việc quản lý khách hàng, bồi thường, giám định kịp thời, chính xác, ngăn chặn trục lợi bảo hiểm và đào tạo nhân sự. Hiện, AAA đang đứng ở vị trí thứ 8 trong tổng số 28 công ty bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam, với 700 nhân sự.

Bám đuổi Prudential

Trong khi IAG đang đặt những nền móng đầu tiên bước chân vào thị trường Việt Nam thì Công ty Bảo hiểm nhân thọ Generali (Y) cũng có những bước tiến sâu hơn vào thị trường này. Generali đang chuẩn bị cho việc ra mắt công ty tại Việt Nam và văn phòng mới tại TP.HCM vào ngày 10/5 sắp tới.
Bất chấp các công ty bảo hiểm nhân thọ nổi tiếng khác đã có mặt từ lâu tại Việt Nam, Generali tự tin khẳng định sẽ mang đến những lợi thế so sánh riêng. Cụ thể, đó là các sản phẩm bảo hiểm đa dạng nhấn mạnh vào bảo hiểm sức khoẻ và chương trình hưu trí cho nhân sự của các tập đoàn đa quốc gia.
Tháng 3 vừa qua, Công ty Bảo hiểm nhân thọ Nhật Bản Sumitomo (Nhật Bản) cũng đã thành lập văn phòng đại diện tại Hà Nội. Số lượng các công ty tham gia bảo hiểm nhân thọ dù không ngừng tăng lên qua mỗi năm, nhưng theo các chuyên gia trong ngành, con số 14 doanh nghiệp nhân thọ hiện nay vẫn còn ít với một thị trường tiềm năng như Việt Nam.

Theo khảo sát Vietcycle do TNS Việt Nam thực hiện, năm 2011, tỷ lệ người dân sở hữu bảo hiểm tại Việt Nam khá thấp, chỉ 6,6%. Và cũng chỉ 25% người dân tại ba thành phố chính của Việt Nam gồm TP.HCM, Hà Nội và Đà Nẵng sở hữu sản phẩm bảo hiểm.
Trong đó, đa phần chỉ sở hữu một sản phẩm bảo hiểm. Trong khi, ở Philippines hay Hồng Kông, người dân thường mua từ 2 - 4 sản phẩm bảo hiểm. “Chúng ta sẽ thấy tỷ lệ sở hữu bảo hiểm của người dân Việt Nam sẽ tăng lên trong tương lai, ít nhất là 5 - 10 năm nữa. Điều quan trọng là công việc của các đại lý phải giúp khách hàng nhận ra nhu cầu cần được bảo hiểm và chọn giải pháp phù hợp nhu cầu của khách hàng”, ông Robert Cook, Chủ tịch Manulife Financial Asia Limited khu vực châu Á, nhấn mạnh.

Không chỉ các công ty mới hăng hái tham gia thị trường bảo hiểm Việt Nam, các công ty hiện hữu cũng không ngừng mở rộng mạng lưới của mình. Hệ thống đại lý của Manulife Việt Nam trong năm 2011 đã trưởng đáng kể với 34% lên 12.000 đại lý toàn quốc cùng với tốc độ tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm năm 2011 của công ty gấp đôi tốc độ chung 20% của ngành bảo hiểm nhân thọ.
Theo ông David Wong, Phó chủ tịch cấp cao phụ trách điều hành khu vực Đông Nam Á của Tập đoàn Manulife Financial, về lâu dài, mục tiêu của công ty là vươn từ vị trí thứ ba trên thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam lên nhóm hai công ty có doanh thu phí bảo hiểm hằng năm cao nhất.
Theo Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, doanh số bảo hiểm phi nhân thọ của Việt Nam có thể tăng 20%, đạt 24.200 tỷ đồng trong năm 2012 trong khi khu vực bảo hiểm nhân thọ tăng 15%. Mức chi trả cho bảo hiểm phi nhân thọ bình quân trên đầu người ở Việt Nam là 10,30USD trong khi con số ở Malaysia và Thái Lan lần lượt là 141,80USD và 77,60USD.
Trước đó, hồi đầu năm, Bảo Việt đặt mục tiêu doanh thu phí bảo hiểm mới vượt Prudential Việt Nam. Thông tin này gây xôn xao ngành bảo hiểm nhân thọ vì Prudential Việt Nam vốn ở vị trí số 1 tại Việt Nam từ rất lâu.
Dù vậy, một chuyên gia trong ngành nhận xét, mục tiêu chạy đua của các nhóm dưới Prudential nhằm giành giật thị phần doanh thu khai thác mới là có thể và sẽ ngày càng trở nên gay cấn. Nguyên nhân, theo các chuyên gia, sau 10 năm, nhiều hợp đồng bảo hiểm đang sắp hết thời hạn.
Do vậy, một số công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ bị mất một lượng khách hàng lâu năm. Khi đó, khách hàng có thể có nhiều cơ hội lựa chọn công ty và sản phẩm bảo hiểm khác trong điều kiện có nhiều nhà cung cấp dịch vụ và sản phẩm hơn như hiện nay.
Thống kê của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cho thấy, Prudential Việt Nam nắm giữ 27,8% thị phần khai thác mới. Theo sát Prudential Việt Nam là Bảo Việt với 27,2% thị phần.

Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Sẽ còn bao nhiêu đại gia ôtô ngoại “đậu” lại Việt Nam?

Hiện tại ngành công nghiệp ôtô VN được cho là kém phát triển, 80% linh kiện phục vụ cho lắp ráp xe vẫn phải nhập khẩu. Thị trường ôtô có quy mô nhỏ, khoảng 150.000 xe/năm, đã thế lại bị hạn chế tiêu dùng ôtô, cộng với các chính sách liên tục thay đổi, khiến cho các DN ôtô không yên tâm đầu tư .
Honda đã từng có kế hoạch giảm đầu tư tại Việt Nam
Theo ông Tachibana - Tổng giám đốc Công ty Toyota Việt Nam thì đến 2018 tại Việt Nam nhiều nhất sẽ có 3 DN ôtô FDI trụ lại. Nhưng một số ý kiến khác thì cho rằng 3 cũng là quá nhiều, khi đó có thể chẳng còn DN nào.
Nguyên nhân bởi thuế
Một số DN ôtô FDI được hỏi cũng không nói rõ về tương lai của họ tại Việt Nam. Nhiều người đã hình dung ra một kịch bản khi thuế suất thuế nhập khẩu ôtô giảm xuống còn 0-5% thì xe nhập khẩu nguyên chiếc sẽ tràn vào thị trường và xe trong nước không thể cạnh tranh được, các DN rút đi hết chỉ để lại các đại lý làm nhiệm vụ phân phối xe nhập khẩu và thực hiện các dịch vụ sau bán hàng.
Phân tích về vấn đề này các chuyên gia cho biết, đến 2014 thì thuế suất thuế nhập khẩu ôtô từ khu vực các nước ASEAN (khu vực AFTA) sẽ giảm xuống còn 50%, chỉ với mức thuế này ôtô lắp ráp trong nước đã không cạnh tranh nổi với xe nhập khẩu rồi, chưa nói các năm tiếp theo đó sẽ tiếp tục giảm thuế để tới 2018 mức thuế nhập khẩu ôtô còn 0%.
Xe lắp ráp trong nước vốn không được ưa chuộng bằng xe nguyên chiếc nhập khẩu tại Việt Nam. Khi không còn được bảo hộ nữa, xe trong nước sẽ mất lợi thế cạnh tranh, các DN cũng chẳng thể sản xuất, lắp ráp, lúc đó chỉ còn con đường là rút lui.
Hiện tại ngành công nghiệp ôtô VN được cho là kém phát triển, 80% linh kiện phục vụ cho lắp ráp xe vẫn phải nhập khẩu. Thị trường ôtô có quy mô nhỏ, khoảng 150.000 xe/năm, đã thế lại bị hạn chế tiêu dùng ôtô, cộng với các chính sách liên tục thay đổi, khiến cho các DN ôtô không yên tâm đầu tư .
Trong vòng 6 năm nữa công nghiệp ôtô Việt Nam được cho là khó có thể phát triển mạnh và đáp ứng đủ nhu cầu trong nước. Các hàng rào kỹ thuật khó có thể ngăn cản được lượng xe nhập đổ vào bởi Việt Nam là quốc gia đi sau, với khoa học công nghệ chậm phát triển nên các tiêu chuẩn kỹ thuật đưa ra cũng không ngăn nổi các quốc gia có công nghệ hiện đại hơn vượt qua.
Lấy ví dụ, hiện nay Việt Nam đang áp dụng tiêu chuẩn khí xả Euro 2 với động cơ ôtô, đến 2018 có nâng lên đến tiêu chuẩn Euro 4 thì cũng không thể là rào cản bởi các nước có ngành công nghiệp ôtô phát triển đã áp dụng tiêu chuẩn này từ lâu rồi nên xe của họ sản xuất ra dễ dàng vượt qua các hàng rào kỹ thuật.
Nguy cơ của Việt Nam
Trong khi đó thì các nhà đầu tư lại đang đẩy mạnh đầu tư vào Indonesia. Tập đoàn Toyota Nhật Bản mới đây đã quyết định đầu tư hơn 200 triệu USD vào Indonesia để sản xuất mẫu xe Innova với công suất 70.000 xe/năm. Hiện tại, hãng xe Nhật Bản này đã có 2 cơ sở sản xuất tại Indonesia với công suất 300.000 xe/năm.
Hãng Nissan cũng vừa công bố kế hoạch đầu tư 320 triệu USD vào Indonesia để nâng công suất sản xuất tại nhà máy của hãng đặt tại phía Tây Java lên hơn gấp 3 lần, đồng thời xây dựng thêm một nhà máy lắp ráp động cơ ở gần đó, theo kế hoạch, đến năm 2018, Nissan sẽ tăng công suất sản xuất tại nhà máy này từ 50.000 chiếc/năm lên 180.000 chiếc/năm.
Indonesia với dân số 300 triệu người kinh tế đang phát triển được coi là thị trường ôtô rất tiềm năng. Bên cạnh đó ngành công nghiệp hỗ trợ tại đây cũng đang phát triển mạnh. Ngoài ra Chính phủ Indonesia cam kết một chính sách ổn định lâu dài cho phát triển công nghiệp ôtô, giúp các nhà đầu tư rất yên tâm.
Các nhà đầu tư cho biết, trong vài năm tới, Indonesia sẽ trở thành 1 trung tâm công nghiệp ôtô lớn nhất tại Đông Nam Á, vượt qua cả Thái Lan. Khi đó Đông Nam Á sẽ có 2 trung tâm công nghiệp ôtô lớn, cung ứng khoảng 10 triệu xe/năm cho toàn khu vực này với thị trường trên 600 triệu dân.
Trong khi đó từ 10 năm nay, các DN FDI chỉ đầu tư rất ít vào công nghiệp ôtô tại Việt Nam. Trước đây Toyota đã có ý định phát triển mẫu xe Innova tại Việt Nam, tuy nhiên, do chính sách liên tục thay đổi đã làm cho nhà đầu tư này nản lòng.
Hơn 10 năm trước Ford cũng coi Việt Nam là điểm đầu tư hấp dẫn nhưng nay họ cũng không có kế hoạch gì cả mà tập trung vào các nước Thái Lan, Philippine...
Theo ông Ngô Văn Trụ - Phó vụ trưởng vụ công nghiệp nặng Bộ Công thương, dựa theo xu hướng phát triển chung về thị trường ôtô, các nhà khoa học đã chứng minh rằng khi mà chỉ số sở hữu xe đạt 50 xe/1.000 dân thì quốc gia đó sẽ bắt đầu thời kỳ ôtô hoá (motorization) đó là quá trình ôtô trở nên phổ biến và trở thành phương tiện thiết yếu cho cuộc sống của mọi người.
Hiện nay, Việt Nam đang ở giai đoạn trước motorization với tỉ lệ 18 xe/1.000 dân, nhưng theo dự báo từ năm 2020 về sau, kinh tế phát triển mạnh, mức thu nhập bình quân đầu người được nâng cao và hạ tầng giao thông phát triển, thì nhu cầu về ôtô cá nhân (xe dưới 10 chỗ) sẽ tăng mạnh.
Theo tính toán của Bộ Công Thương, đến năm 2015 tỉ lệ ôtô trên đầu người của VN sẽ là 28 xe/1.000 dân; đến 2020 là 38 xe/1.000 dân và 2025 là 88 xe/1.000 dân. Như vậy, thời kỳ motorization của VN sẽ diễn ra vào khoảng năm 2020-2025.
Nếu không phát triển được công nghiệp ôtô dưới 10 chỗ thì vào 2025 mỗi năm Việt Nam phải bỏ ra 12 tỷ USD để nhập khẩu ôtô và như vậy rất có thể sẽ phải gánh chịu một mức thâm hụt cán cân thương mại khổng lồ, không những thế thị trường ôtô lớn của Việt Nam có nguy cơ rơi vào tay các nhà cung cấp nước ngoài.

Chia sẻ cùng bạn vấn đề đầu ra ngành thép: Để cơ chế thị trường quyết định

Doanh nghiệp nhà nước hiện chỉ chiếm 25% thị phần, doanh nghiệp liên doanh khoảng trên 20%, còn lại 54-55% là các thành phần kinh tế khác. Bản thân các doanh nghiệp cũng cạnh tranh với nhau quyết liệt để chiếm thị phần, chính vì thế giá cả do thị trường quyết định chứ doanh nghiệp không thể tự động quyết định giá.
Tình trạng cung lớn hơn cầu, vấn đề thừa, thiếu đã tồn tại cả một thời gian dài trong ngành thép trong nước. Trao đổi với báo chí về vấn đề tái cơ cấu ngành này, ông Nguyễn Tiến Nghi, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam cho rằng, không thể giải quyết ngay mà cần chấp nhận theo sự vận động của thị trường, ai có khả năng cạnh tranh tốt thì sẽ tồn tại, còn ai không có khả năng tốt thì dần dần sẽ phải thay đổi.
“Chúng tôi đã đi tham khảo một số nước ở Đông Nam Á hoặc Trung Quốc thì các nước cũng như vậy, để cho cơ chế thị trường quyết định”, ông Nghi cho biết.
Ở các nước tiên tiến, không phải cứ chỗ nào có quặng là xây dựng nhà máy thép ở đó, khiến khả năng cạnh tranh thấp đi
* Thưa ông, bức tranh của ngành thép trong những tháng đầu năm 2012 diễn ra như thế nào?
- Bước sang năm 2012 tình hình sản xuất và tiêu thụ thép có nhiều yếu tố không thuận lợi: Tháng 1, tiêu thụ chỉ được 233 nghìn tấn, đây là mức rất thấp từ trước đến nay. Tháng 2 được 389 nghìn tấn, vẫn thấp hơn mức trung bình và tháng 3 được 521 nghìn tấn. Như vậy, quý I/2012 so với cùng kỳ của năm 2011 vẫn thấp hơn 10%.
Tuy nhiên, tồn kho cũng không nhiều, tính đến 31/3, lượng tồn kho là 288 nghìn tấn, thấp hơn rất nhiều so với mức 392 nghìn tấn tồn kho của năm 2011.
Trong quý I, có nhiều yếu tố đầu vào nâng lên, gây cho các nhà sản xuất khó khăn. Giá phôi thế giới cũng cao lên từ 620-650 USD/tấn, thép phế cũng tăng lên, trong nước giá than, giá xăng dầu, và một số giá khác như vận tải cũng tăng lên.
Trong khi đó, sản lượng bán ra hằng năm rất thấp so với công suất lắp đặt, cho nên các doanh nghiệp cạnh tranh nhau rất quyết liệt.
Doanh nghiệp nhà nước hiện chỉ chiếm 25% thị phần, doanh nghiệp liên doanh khoảng trên 20%, còn lại 54-55% là các thành phần kinh tế khác. Bản thân các doanh nghiệp cũng cạnh tranh với nhau quyết liệt để chiếm thị phần, chính vì thế giá cả do thị trường quyết định chứ doanh nghiệp không thể tự động quyết định giá.
Sang tháng 4, tình hình chưa có gì thay đổi, GDP chưa cao, một số chính sách như tiền tệ chưa có gì thay đổi, hoặc có độ trễ nhưng chưa đáng kể. Thứ hai, các công trình đầu tư công vẫn tiếp tục giảm và đình trệ.
Vì thế, chúng tôi nhận định, tháng 4 có thể tiêu thụ ở mức 450-460 nghìn tấn, thấp hơn tháng 3 nhưng cao hơn mức trung bình (mức trung bình là 420-430 nghìn tấn) và nếu đạt được mức như trên thì đó là một tín hiệu đáng mừng rồi.
* Một loạt chính sách như hạ lãi suất vay, tăng tín dụng cho một số lĩnh vực bất động sản được kích hoạt trong thời gian gần đây, ngành thép đón nhận những cơ hội này thế nào thưa ông?
- Có thể thấy, nhà nước và các bộ ngành đã nhìn thấy những khó khăn của doanh nghiệp sản xuất thép, nhưng quan trọng nhất là làm thế nào để tạo ra thị trường tiêu thụ tốt hơn.
Hiện lãi suất vay đã giảm, nhưng phải có độ trễ, đồng thời mặc dù đã giảm nhưng lãi suất vẫn đang ở mức cao.
Thứ hai, các dự án đầu tư công thì những công trình nào thật cần thiết cũng cần được đẩy nhanh, còn những công trình xây dựng cơ bản cũng cần được kích hoạt. Có như vậy sẽ tạo cho thị trường tiêu thụ thép trong nước sôi động hơn, giúp cho các doanh nghiệp trong ngành phát huy hiệu quả sản xuất.
Trong năm ngoái và năm nay, xuất khẩu thép có khá hơn, đó cũng là cách giúp cho các doanh nghiệp bớt căng thẳng. Hơn nữa, những doanh nghiệp có công nghệ thiết bị chưa tiên tiến lắm cũng từng bước tìm cách đổi mới, thay đổi thiết bị đi, để có thể ngang bằng với các doanh nghiệp khá khác chứ nếu không, trong cơ chế thị trường này, các doanh nghiệp đó sẽ hết sức khó khăn.
* Từ thực tế trên, việc tái cơ cấu lại ngành thép được hiệp hội đề xuất như thế nào thưa ông?
- Có thể thấy, ngành thép thực hiện cơ chế thị trường khá sớm, hiện cũng đang triển khai rất quyết liệt việc tái cơ cấu. Nếu doanh nghiệp nào đầu tư không tốt thì chắc chắn sẽ bị loại bỏ.
Trước đây, chúng tôi cũng đã từng có công văn kiến nghị Bộ Công Thương xem xét việc cấp phép cho các doanh nghiệp sản xuất thép nên có những quy định chọn công nghệ nào, thiết bị ra sao để khuyến khích đầu tư, và Bộ Công Thương đã ra những văn bản điều chỉnh việc quy hoạch ngành này.
Còn việc tái cấu trúc lại ngành thép, theo tôi, đối với các doanh nghiệp cũng cần lưu ý mốt số điểm, nếu đầu tư trước đây lạc hậu rồi thì cần chuyển hướng và lựa chọn sang công nghệ mới.
Đơn cử, tiêu hao dầu cho một tấn sản phẩm thép thì giá đầu vào tương đối lớn, nhưng gần đây nhiều doanh nghiệp đã chọn phát sinh khí than để làm giảm giá thành sản xuất.
Nhìn dài hơi, lâu nay chúng ta chỉ chú trọng đầu tư hạ nguồn là chính (chủ yếu làm về thép cán), do vậy cần cố gắng đầu tư để có những liên hợp sản xuất từ quặng thì sẽ ổn định và lâu dài hơn.
Quan trọng nữa là cần thay đổi quan niệm, không phải địa phương nào cũng đầu tư làm thép. Ở các nước tiên tiến, việc lựa chọn địa điểm rất được xem trọng, không phải cứ chỗ nào có quặng là xây dựng nhà máy thép ở đó, khiến khả năng cạnh tranh thấp đi, nhất là khi giao thông ở nước ta còn chưa thuận lợi.
Việc đào tạo công nhân và đội ngũ kỹ sư là khâu thiết yếu. Thời gian vừa qua ngành luyện kim trong nước phát triển rất nhanh, do vậy phải tận dụng được cả đội ngũ công nhân đã nghỉ hưu, họ là những cán bộ lành nghề, từng trải và có nhiều kinh nghiệm sản xuất.
* Hiện đã bước sang quý II/2012, với kinh nghiệm thực tế thì theo ông, từ nay đến cuối năm, những mục tiêu cụ thể nào được đặt ra để ngành thép hoàn thành các chỉ tiêu của mình?
- Năm 2012 chắc chắn còn nhiều khó khăn. Tình hình thế giới còn nhiều diễn biến khó lường, ngay cả trong nước, sau diễn biến khó khăn của năm 2011 thì bước sang năm 2012 nhà nước vẫn duy trì Nghị quyết 11 nên việc tiêu thụ thép chắc vẫn có nhiều khó khăn.
Chính vì thế chúng tôi xác định, cố gắng làm thế nào giảm chi phí ở mức thấp nhất để tạo ra khả năng cạnh tranh, ngoài tiêu thụ trong nước sẽ cố gắng làm sao có giá cả hợp lý, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm bớt sức ép trong nước.
Cuối năm ngoái chúng tôi vẫn xác định khả năng năm 2012 có thể tăng trưởng hơn năm 2011 từ 3-4%, nhưng thực tế quý I đã bị giảm 10%. Vì vậy, gánh nặng tăng trưởng sẽ rơi vào từ quý II cho đến cuối năm. Hy vọng tình hình trong thời gian tới, với những nỗ lực kích cầu thì việc tiêu thụ thép sẽ tốt hơn...

Chia sẻ cùng bạn tin Ấn Độ sẽ tăng nhập khẩu hạt tiêu

Theo ông Jojan: “Việt Nam sẽ không vội bán hàng khi nhu cầu tại Mỹ và châu Âu vẫn đang thấp. Hiện tại, giá tiêu Việt Nam đang cao hơn 35-40% so với mức giá chung tại thời điểm cùng kỳ năm ngoái". Số liệu từ Ủy ban Gia vị Ấn Độ, giá tiêu tại thị trường New York thời điểm tuần cuối tháng 3/2012 ở mức 7,72 USD/kg so với 5,95 USD/kg cùng kỳ năm 2011.
Ông Jojan Malayil, chủ doanh nghiệp Bafna có trụ sở tại Kochi cho biết: “Nguồn hàng tại Ấn Độ rất hiếm, trong khi tháng 3 chỉ nhập khẩu được 1.000 tấn. Giá hạt tiêu sẽ còn tăng do sản lượng thấp và tiêu dùng tăng cao”.
Báo cáo của Ủy ban Hạt tiêu Quốc tế (IPC), trong năm 2012, sản lượng tiêu của Ấn Độ dự kiến giảm 5.000 tấn xuống mức 43.000 tấn. Sản lượng tiêu toàn cầu trong năm 2012 tăng 7,2%.
Theo ông Jojan: “Việt Nam sẽ không vội bán hàng khi nhu cầu tại Mỹ và châu Âu vẫn đang thấp. Hiện tại, giá tiêu Việt Nam đang cao hơn 35-40% so với mức giá chung tại thời điểm cùng kỳ năm ngoái".
Số liệu từ Ủy ban Gia vị Ấn Độ, giá tiêu tại thị trường New York thời điểm tuần cuối tháng 3/2012 ở mức 7,72 USD/kg so với 5,95 USD/kg cùng kỳ năm 2011.
Giá hạt tiêu tại sàn giao dịch NCDEX Ấn Độ hiện ở mức 38.850 Rs/tạ Anh (khoảng 15,0 USD/kg) trong khi các hợp đồng giao hàng trong tháng 4 - 5 tăng 2%. Bà Nalini Rao, chuyên gia nghiên cứu phân tích Angel Broking cảm nhận rằng thị trường sẽ nhích lên một chút do hàng nhập về giảm tại các thị trường đầu cuối.

Tìm hiểu câu chuyện xoá sổ nhiều tỷ phú cá tra

Như vậy, sau hơn 10 năm mở cửa hàng bán thuốc thú y thủy sản, bao nhiêu lời lãi của ông... chỉ còn là một mớ giấy lộn. Ở xứ mình, cái cách làm ăn là tin nhau, nên sau khi bán thuốc thú y chỉ có trơ tờ giấy biên nhận ghi tên của người bán và người mua mà thôi. Đến khi cơ sự xảy ra thì chỉ biết kêu trời.
Những tỉ phú chân đất thành phố Long Xuyên, An Giang - một thời huy hoàng nhờ con cá tra, giờ bỗng trắng tay và lâm vào cảnh nợ nần chồng chất. Vì đâu nên nỗi này?
"Chết" vì cá quá lứa
Những năm 2006-2007, ở An Giang lưu truyền câu nói cửa miệng "ở đâu có nước là ở đó đào được vàng". Không chỉ bà con nông dân, mà các công ty xây dựng, công ty lương thực cũng nhảy vào nuôi cá tra, chưa kể những đại gia từ TP.HCM lặn lội xuống đây săn tìm cơ hội làm giàu. Sau bao năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, giờ bỗng dưng nhiều người thành tỷ phú chỉ sai một vụ cá.
Cá tra quá lứa sẽ rất khó bán, lại tốn tiền thức ăn hàng ngày
Sau 12 năm con cá tra bén duyên với người ĐBSCL, đến nay, chỉ còn lại những đại gia mới đủ lực mới trụ lại được với con cá này. Thế hệ doanh nhân tỷ phú chân đất giờ đang trong cảnh chết dở sống dở.
Một đại gia nuôi cá tra ở An Giang, vị này có 7 khu nuôi cá, mỗi khu có diện tích từ 6.000-8.000 mét vuông, thuộc diện lớn nhất An Giang lý giải vì sao nhiều đại gia khác bị Bình An nợ một khoản tiền lớn như vậy. Lý do, họ đang tồn một lượng cá tra quá lứa (từ 1,2-1,5kg/con).
Hiện tại, mặt hàng phi lê các nhà máy chế biến chỉ mua cỡ 800gram-1kg, chứ ít khi mua loại từ 1,2kg trở lên. Do đó, nếu giá cá có rẻ ở mức dưới giá thành sản xuất thì cũng phải cắn răng mà bán. Nói như dân chơi cổ phiếu là cá tra trên 1kg thì dù giá nào cũng phải bán để cắt lỗ.
Một héc-ta cá tra quá lứa, mỗi ngày tiêu tốn của gia chủ khoảng 120 triệu tiền thức ăn.
Với loại cá tra quá lứa này, nhiều nhà máy chế biến từ chối không mua. Lúc này, những công ty như Bình An, An Khang (Cần Thơ), Vạn Hưng ở Sóc Trăng nhảy vào mua. Người nuôi có bao nhiêu cá quá lứa, họ mua hết bấy nhiêu.
Dĩ nhiên, cá được bắt, còn tiền thì để từ từ rồi trả. Vào thời điểm hiện tại, tổng số tiền mà cả 3 doanh nghiệp này nợ tiền cá vào khoảng 300 tỷ đồng.
Thời điểm nợ tiền mua cá vào khoảng tháng 9/2011. Như vậy, với lại suất trung bình 14%/năm, thì 6 tháng qua, số tiền mất đi (phần tiền lãi) sơ sơ cũng lên đến 21 tỷ đồng. Hiện số tiền nợ 300 tỉ đồng này thuộc diện nợ khó đòi nếu không nói là sẽ mất trắng.
Ông Hai Thân, một người nuôi cá tra ở Long Xuyên (An Giang) - cho biết vừa mới xuất bán 45 công (2,5 héc ta) thu về gần 16 tỉ đồng. Song, tiền mua thức ăn, thuốc thú y cho 8 tháng nuôi cá đã lên tới khoảng 13 tỉ đồng. Số tiền này, đa phần ông Thân đều vay từ ngân hàng, nợ tiền đại lý.
Sau khi bán cá, 30 ngày sau, doanh nghiệp mới trả tiền, nghĩa là từ khi giao cá đến khi lấy tiền ông Thân mất thêm 300 triệu đồng tiền lãi ngân hàng. Còn khi gặp những công ty cứ đến hẹn trả tiền là tiếp tục hứa... thì bao nhiêu lời lãi... chảy vào ngân hàng.
Trong trường hợp của ông Hai Thân, nếu công ty thủy sản trả tiền đúng như cam kết thì sau 8 tháng nuôi, ông có lãi khoảng hơn 1 tỷ đồng. Còn nếu công ty thủy sản sau 4 tháng mới trả nợ thì coi như lứa cá đó ông không thu được đồng lời nào và bắt đầu lỗ.
"Tôi may mắn có mối quan hệ làm ăn lâu năm với ngân hàng nên vay tiền để nuôi cá không gặp khó khăn. Chỉ có điều, tôi phải chấp nhận trả lãi 2%/tháng cho số tiền 13 tỷ đồng vừa vay", ông Hai Thân, một người nuôi cá ở Long Xuyên, An Giang cho hay.
Ông Thân cũng cho biết, do có nhiều năm nuôi cá tra (từ 1998) nên chưa có vụ nuôi cá nào khiến ông bị lỗ nên dễ tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng. Còn đối với những tay nghiệp dự nhảy vào nuôi cá... thì chuyện bị lỗ trong vài năm trở lại đây thì đếm không hết.
Và rồi trắng tay
Hầu như những khách hàng nào bán cá với số lượng lớn cho những công ty chế biến thủy sản kiểu như Bình An thì hiện không còn nuôi cá nữa. Ao nuôi thì bị ngân hàng phong tỏa, còn các đại lý thuốc thú y, thức ăn thủy sản thì cứ "đầu tiên"- tiền đâu mỗi khi thấy mặt họ.
Ông Đỗ Xuân Mai, chủ cửa hàng thú y thủy sản tại Long Xuyên, thời gian qua như ngồi trên lửa vì chưa thu được hơn 4 tỷ đồng tiền nợ của 25 hộ nuôi cá chưa trả hết, và không biết bao giờ mới thu được số tiền nợ này. 
Bởi, theo ông Mai, 10 hộ nuôi cá đã bỏ xứ đi biệt tăm, kéo theo đó khoảng 1,5 tỷ đồng sẽ không thu lại được. Còn những người khác thì tiếp tục xin khất nợ.
Như vậy, sau hơn 10 năm mở cửa hàng bán thuốc thú y thủy sản, bao nhiêu lời lãi của ông... chỉ còn là một mớ giấy lộn. Ở xứ mình, cái cách làm ăn là tin nhau, nên sau khi bán thuốc thú y chỉ có trơ tờ giấy biên nhận ghi tên của người bán và người mua mà thôi. Đến khi cơ sự xảy ra thì chỉ biết kêu trời.
Theo ông Mai, ở cái thủ phủ cá tra này, hầu như người nuôi cá tra, đại lý bán thức ăn thủy sản, thuốc thú y và doanh nghiệp chế biến dù ít hay nhiều điều nợ tiền của nhau.
Đối với các chủ đầm cá tra, nhất là những tay nghiệp dư, thì khi nhảy vào nuôi cá họ có tiền để thuê những kỹ sư giỏi, nhưng đã không thuê được cái tâm của những người này. Vì thế, cứ nuôi là cá cứ chết, có trang trại tỷ lệ cá chết lên đến 25%.
Khác với những kỹ sư thủy sản làm tại các trang trại nuôi tôm, họ thường được ông chủ trả từ 15-25% tổng lợi nhuận thu về. Vì thế, với những kỹ sư thủy sản họ xem việc sống chết của con tôm là nồi cơm của mình. Còn với kỹ sư làm tại các trang trại nuôi cá tra, họ cũng chỉ là một người làm công ăn lương nên chuyện bệnh tật, chuyện cho cá ăn vượt khả năng hấp thụ của con cá... , hầu như không được quan tâm.
Trong thức ăn thủy sản luôn có một lượng lớn chất đạm, nếu cá tiêu thụ không hết sẽ gây ô nhiễm nguồn nước. Chính nguồn nước này, là tác nhân gây chết cá hàng loạt vì các ao nuôi cá tra không có hệ thống sụt khí như ở tôm.
Trước đây, trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội tỉnh An Giang xem con cá tra và cây lúa là hai thế mạnh của tỉnh nhà để giúp tỉnh phát triển kinh tế.
Nhưng hiện tại, người ta hình như cố tình không nhắc đến con cá tra, không muốn gợi lại những kỷ niệm buồn về con cá đã có mặt tại 135 quốc gia, vùng lãnh thổ chỉ sau hơn 10 năm được phát triển dưới quy mô công nghiệp. Nói như vậy để biết con cá tra vừa mang cho người dân ĐBSCL biết bao vinh hoa nhưng cũng còn đó những giọt nước mắt buồn.